Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012


“Việt Nam nên trở thành bếp ăn của thế giới” – Philip Kolter

Có một căn cứ đáng giá để đồng tình với quan điểm trên của ngài Philip Kolter, đó là Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp. Từ trong cách mạng, sau khi giành độc lập dân tộc, từ thời kỳ đổi mới cho tới thời điểm này thì kinh tế nước ta vẫn chủ đạo là kinh tế nông nghiệp. Gần 90% dân số sống ở khu vực nông thôn, (năm 2005) khoảng 60% lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP vẫn ở mức 20-30%. Là một trong những nước dẫn đầu về xuất khẩu nông sản ra thế giới. Thậm chí, nền kinh tế nông nghiệp còn ảnh hưởng sâu sắc vào trong cả lối nhận thức, lối tư duy truyền thống của người Việt – Tư duy nông nghiệp, tư duy tiểu nông.
Nhưng hàm ý của ngài Philip Kolter rõ ràng nhắm tới việc xây dựng hình ảnh của một quốc gia, của dân tộc. Vấn đề này luôn là phức tạp – mọi người ai cũng nghĩ thế, nên còn phải “bàn nhiều”! Bài viết này chỉ nhằm phân tích một khía cạnh của nhận định trên: “bếp ăn của thế giới” trong mối quan hệ với du lịch.
Một số quốc gia châu Á đã khắc họa được một hình ảnh riêng về đất nước của họ. Trung Quốc là “công xưởng của thế giới”, Ấn Độ là “văn phòng của thế giới”. Những hình ảnh gắn liền với sự nhộn nhịp, náo nhiệt của kinh tế thị trường, nơi mọi người khắp nơi trên thế giới đến làm ăn, hợp tác. Vậy “bếp ăn của thế giới” nghe có vẻ không được “kinh tế” cho lắm. Nghĩ tới nhà bếp là nghĩ tới ăn uống, mà nhu cầu ăn uống cũng chỉ đơn giản gồm hai loại: nhu cầu về những bữa ăn hàng ngày vì mục đích cơ bản là sinh tồn, nhu cầu thứ hai cao cấp hơn – thưởng thức. Nếu Việt Nam được khắc họa là “bếp ăn của thế giới” thì mọi người sẽ đến về mục đích gì, nhu cầu gì? Làm ăn? Tất nhiên là luôn có những mối quan hệ hợp tác kinh tế với bất kỳ một chủ thể kinh tế nào, ngay cả đó là một quốc gia, và mục đích này càng nhiều hơn khi Việt Nam đang tăng cường hợp tác quốc tế. Nhưng điều này lại không liên quan lắm tới bếp núc!
Đến Việt Nam với mục đích định cư lâu dài để được thưởng thức các món ăn Việt hàng ngày, hàng tháng! Có vẻ cũng không hợp lý lắm. Hợp lý nhất là họ đến để được thưởng thức phong vị riêng có của những món ăn Việt. Tất nhiên không đơn thuần là chỉ đi để thưởng thức, họ có thể sang làm ăn, hợp tác, đi du lịch, thăm thân, …nhưng nhu cầu thưởng thức món ăn Việt sẽ là “điều không thể bỏ qua” một khi họ đã đến Việt Nam.
Du lịch có thể coi như một đại sứ văn hóa vô hình quảng bá hình ảnh đất nước tới du khách quốc tế. Vậy nếu Việt Nam muốn xây dựng hình ảnh “bếp ăn của thế giới” thì việc quảng bá hình ảnh này tốt nhất nên gắn liền với du lịch. Du lịch Việt Nam từ trước vẫn chủ đạo là du lịch văn hóa, tuy nhiên văn hóa ẩm thực vẫn chưa thực sự được chú ý tới. Rõ ràng người làm du lịch đang bỏ qua một giải pháp làm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Ẩm thực Việt đang thiếu đi những giải pháp định vị và nỗ lực quảng bá cần thiết.

Những gợi ý về việc xây dựng hình ảnh Việt Nam – Bếp ăn của thế giới.


■ Tổ chức thu thập, khảo sát về món ăn đặc sắc ở mỗi vùng miền từ đó đưa ra những tổng kết danh sách những món ăn the từng chủ để khác nhau (món biển, món canh, món Huế, hoa quả vùng…)
■ Đăng cai tổ chức các cuộc thi, triển lãm ẩm thực khu vực và quốc tế.
■ Đầu tư vào công đoạn chế biến nông sản, kỹ thuật sau thu hoạch.
■ Thực hiện nghiêm túc điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao nhận thức của người nuôi trồng nông sản và người chế biến nông sản về an toàn vệ sinh thực phẩm, sức khỏe cộng đồng. Có chế tài xử phạt mạnh mẽ, đặc biệt chú ý tới các cơ sở phục vụ khách du lịch.
■ Xây dựng bộ tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm quốc gia.
■ Khuyến khích kinh tế nông nghiệp ở nông thôn.
■ Tăng cường hoạt động của cơ quan hải quan trong việc giám sát, ngăn chặn những nông sản kém chất lượng nhập lậu từ các quốc gia khác vào trong nước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét